Pages

Được tạo bởi Blogger.

Thứ Hai, 7 tháng 10, 2013

Chế độ ăn giúp bé 10 tháng “thoát” suy dinh dưỡng

Hỏi: Con gái em khi chào đời được 2.9kg. Hiện tại, chỉ còn năm ngày nữa bé sẽ tròn 10 tháng. Bé nặng 6.7kg và cao 67cm. Em thấy bé nhỏ con và nhẹ cân hơn so với các bé khác nên rất lo. Trộm vía bé háu ăn và ăn rất tốt. Bé nhà em bú ngoài từ nhỏ tới giờ. Thực đơn của bé như sau:

5h30: 120ml sữa ngoài Similac

8h: Hơn 1/2 chén cháo (đầy đủ bốn nhóm dinh dưỡng) 

10h: Một hộp váng sữa 50ml, một viên phomai

10h30: 120ml sữa ngoài 

12h30: 1/2 chén cháo 

14h15: Trái cây (chuối, đu đủ... ) 

16h: 120 ml sữa ngoài 

18h: 1/2 chén cháo 

20h: 120ml sữa và ngủ đến sáng.

Bé ngủ mỗi ngày hai giấc ngủ ngắn và một giấc ngủ dài. Bé cũng đi tiêu một ngày 2 cữ rất đều. Xin cho em hỏi thực đơn của bé như trên đã ổn chưa ạ? Cân nặng của bé có gì đáng lo không ạ? Cảm ơn bác sĩ! (Ngân Giang)

Trả lời:

Chào bạn, Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi nhé.

Hiện tại, bé nhà bạn đang ở ngưỡng suy dinh dưỡng độ 1. Ở độ tuổi 10 tháng, các bé gái thường có cân nặng từ 7.5 - 9.6kg và cao từ 69 - 74cm.
Bạn có thể cho bé ăn tăng cường thêm sữa để bổ sung năng lượng cho bé

Bạn có thể cho bé ăn tăng cường thêm sữa để bổ sung năng lượng cho bé.

Bé nhà bạn hiện tại vẫn chưa uống đủ lượng sữa tối thiểu cần thiết cho các bé ở độ tuổi này (710-950ml sữa/ngày). Việc đảm bảo đủ lượng sữa trong ngày là điều rất cần thiết để bé phát triển bình thường. Bé nhà bạn hiện tại vẫn ăn tốt, bạn có thể cho bé ăn tăng cường thêm sữa để bổ sung năng lượng cho bé. Bạn cũng cần cho bé ăn thêm nhiều thức ăn giàu năng lượng như đồ ăn chứa nhiều dầu mỡ, các loại hoa quả xay, dầm cùng đường, sữa... Thức ăn dặm như cháo, bột… cần được nấu kỹ để bé hấp thu dễ dàng hơn. 

Nếu sau khi bạn cho bé ăn tăng cường như trên mà bé vẫn không lên cân, bạn cần đưa bé đi khám xem bé có vấn đề gì về hấp thu dinh dưỡng không. 
Chúc bé nhà bạn luôn khỏe mạnh!
Nguồn: methongthai

Bé từ 10-12 tháng tuổi : Giúp bé luôn khỏe mạnh

Trong Năm đầu đời của bé, có rất nhiều vấn đề bố mẹ phải đặc biệt quan tâm, vì đây chính là nền tảng để bé phát triển về thể chất và tâm sinh lý toàn diện về lâu dài. Ngoài những mốc phát triển tâm sinh lý quan trọng, đâu là các vấn để và nguy cơ tiềm ẩn về sức khỏe của bé trong năm đầu đời?

Thời điểm 10 tháng tuổi

Em bé của bạn có thể biết đứng và trườn đi bằng chính đôi chân của mình. Nhưng các chuyên gia nhi khoa khuyên bạn không nên vội vàng mua giày cho bé tập đi. Đôi chân trần sẽ giúp bàn chân và mắt cá chân của bé phát triển tốt hơn. Nếu bàn chân bé bị lạnh thì bạn nên nghĩ đến một đôi vớ dày, vừa ôm sát vào chân bé, vừa mang lại cảm giác như mang giày, được làm bằng những chất liệu co giãn và không bị trơn trượt (tốt nhất là làm bằng da mềm).

Không nên cho bé bú ngoài quá sớm để ngăn ngừa thiếu sắt

Không nên cho bé bú ngoài quá sớm để ngăn ngừa thiếu sắt - Ảnh: Inmagine

Một cuộc khảo sát năm 2003 đã cho thấy 25% các phụ huynh người Anh cho con họ uống sữa bò từ trước 1 tuổi; nhưng theo lời tư vấn của các chuyên gia thì bạn chỉ nên cho bé bú hoàn toàn bằng sữa mẹ, sữa công thức sẽ được bổ sung thêm vào khoảng từ 6 tháng đến 1 năm tuổi. Bạn cũng có thể trộn sữa bò với thực phẩm, nhưng nếu cho bé uống sữa ngoài quá sớm thì bé sẽ dễ bị thiếu sắt, điển hình là sữa bò cung cấp rất ít chất sắt.
Những em bé bú sữa mẹ có thể được hưởng những ích lợi từ các loại vitamin bổ sung và chất sắt, vì vậy những bà mẹ đang cho con bú nên tham khảo ý kiến bác sĩ để được cung cấp thêm một lượng chất bổ sung cần thiết. Bởi các bé ở thời kỳ này rất dễ mắc phải nguy cơ thiếu máu nhưng lại không cho thấy bất kỳ triệu chứng rõ ràng nào. Tuy nhiên, vẫn có một số dấu hiệu để bạn nhận ra tình trạng thiếu máu của bé chẳng hạn như nhợt nhạt, mệt mỏi, lơ đãng hoặc dễ bị nhiễm trùng.

Thời điểm 11 tháng tuổi

Khói thuốc rất nguy hại với trẻ em, đặc biệt là trẻ nhỏ

Khói thuốc rất nguy hại với trẻ em, đặc biệt là trẻ nhỏ - Ảnh: Inmagine

Lúc này bé rất ưa di chuyển, và quá trình tăng cân của bé cũng bắt đầu chậm lại. Đừng lo lắng về điều này – bởi chỉ vì bé đốt cháy calo nhanh hơn và tập trung phát triển các cơ bắp hơn là tích lũy chất béo – và đây cũng là một sự phát triển tốt. Bạn đừng nên quá lo lắng về việc bé ăn nhiều hay ít, đặc biệt là những lúc bé tỏ ra thèm ăn hoặc mút tay giống như đang muốn bú mẹ. Hãy cung cấp cho bé lượng thức ăn lành mạnh và phong phú.
Cho dù bé đã tự ngồi vững vàng thì bạn cũng đừng bao giờ chủ quan mà bỏ bé ngồi một mình trong bồn tắm để chạy ra ngoài. Nên nhớ, bé vẫn chưa đủ lớn để có thể gượng dậy nếu bị ngã xuống, và trẻ sơ sinh hoặc trẻ nhỏ đều có thể bị chết đuối ở mực nước chỉ cao đến 2 inch.
Các nghiên cứu đều cho thấy việc bảo vệ em bé của bạn tránh khỏi khói thuốc lá là vô cùng quan trọng. Hút thuốc thụ động là nguyên nhân khiến khoảng 17.000 trẻ em phải nhập viện mỗi năm tại Anh, và đồng thời cũng là nguyên nhân gây nhiễm trùng tai giữa và nhiễm trùng đường hô hấp.
Các bé từ 12 đến 18 tháng tuổi cần được tiêm vắc-xin MMR.
Nếu bé có dấu hiệu bị nhiễm trùng tai, hãy liên hệ với bác sĩ để được chẩn đoán cụ thể và xác định xem bạn nên làm gì và liệu rằng thính giác của bé có bị ảnh hưởng không. Nhiễm trùng tai thường gặp ở các bé trai, và các nghiên cứu cũng cho thấy rằng, những bé bị nhiễm trùng một bên tai thì sẽ có nhiều nguy cơ bị nhiễm trùng tai còn lại.
Bé bắt đầu khó chịu hơn trong khi được cho ăn hoặc cho bú. Hãy khuyến khích những thói quen tốt của bé chẳng hạn như ngồi trên bàn ăn cùng nhau. Tránh cho bé ăn các loại snack hoặc uống nước trái cây trong bữa ăn – các loại nước và sữa nên cho bé uống vào thời điểm khác.
Nguồn: monngonmoingay

Mẫu thời gian chăm bé 9-10 tháng tuổi

Các mẹ cùng tìm hiểu nhu cầu chung nhất của bé 9-10 tháng để chăm bé tốt nhất nhé.

Bé 9 – 10 tháng tuổi đã có nhiều thay đổi đáng kể về nhu cầu dinh dưỡng cũng như nhịp sinh hoạt. Các mẹ cùng tìm hiểu các nhu cầu chung nhất của các bé để chăm bé một cách hợp lý nhé:

- Mẹ cần cho bé ăn đủ ba bữa chính (bột hoặc cháo nấu nhuyễn) và bổ sung thêm khoảng 700 – 900 ml sữa mẹ hoặc sữa công thức mỗi ngày. Thời gian này, mẹ có thể bắt đầu tập cho bé tự bốc các loại thức ăn mềm cắt nhỏ cũng như để học cách tự uống sữa với bình sippy.

- Bé ngủ khoảng 14 giờ một ngày bao gồm hai giấc ngủ dài vào ban đêm và buổi trưa và hai giấc ngủ ngắn trong ngày.

- Bé bắt đầu dành nhiều thời gian cho việc phát triển các kỹ năng và học cách tương tác với mọi người xung quanh.

Mẹ cần cho bé 9-10 tháng tuổi ăn đủ 3 bữa

Mẹ cần cho bé 9-10 tháng tuổi ăn đủ 3 bữa (Ảnh minh họa).

Mẫu 1: Bé 9 tháng tuổi bú bình, mẹ làm việc tại nhà

Vì có điều kiện làm việc tại nhà nên chúng tôi không phải ra khỏi nhà vào buổi sáng (chỉ trừ 10h sáng thứ 6 là thời gian tôi tham gia câu lạc bộ dành cho các mẹ nuôi bé sơ sinh).

6h30 – 7h30 sáng: Bé tỉnh giấc và được bố mẹ vuốt ve và chơi cùng. Sau đó mẹ sẽ cho bé ăn khoảng 210 – 240 ml sữa.

8h sáng: Tôi bắt đầu công việc trên máy tính xách tay của mình. Hầu hết thời gian tôi và con ở phòng khách. Bé rất ngoan và tự chơi trên xe tập đi xung quanh mẹ.

8h30 – 9h sáng: Ăn bột.

9h – 10h sáng: Bé tự chơi, xem phin hoạt hình và ngắm nghía cuốn truyện tranh màu mè.

10h sáng: Bé ăn khoảng 210 – 240 ml sữa rồi ngủ một giấc từ 1,5 đến 2 tiếng.

12h trưa: Giờ ăn trưa. Bé đã làm quen và rất thích thú với việc tự cầm thức ăn. Tôi cho con ăn khá đa dạng từ bánh mềm, phô mai, mỳ cho đến rau củ luộc và trái cây. Ngoài ra, bé còn ăn thêm 180 – 210 ml sữa.

12h45 – 3h chiều: Mẹ vừa làm việc vừa chơi cùng bé.

3h chiều: Mẹ làm việc xong. Hai mẹ con cùng chơi với nhau hoặc cùng làm việc nhà hoặc đi mua sắm. Vào khoảng 3h30 đến 4h, bé sẽ ngủ một giấc chừng 1,5 đến 2h. Sau khi thức dậy bé sẽ bú thêm 210 – 240 ml sữa.

5h30 – 6h chiều: Ăn tối với khẩu phần giống với bữa trưa.

6h30: Chồng tôi về nhà. Hai chúng tôi ăn tối và chồng tôi sẽ chơi với con đến khoảng 7h30.

7h30 tối: Tắm cho bé xong, tôi sẽ cho con ăn thêm khoảng 240 ml sữa và cho bé ngủ

Thường xuyên chơi đùa với bố mẹ, bé phát triển tốt

Thường xuyên chơi đùa với bố mẹ, bé phát triển tốt (Ảnh minh họa).

Mẫu 2: Bé 9 tháng tuổi bú bình, mẹ ở nhà

9h sáng: Sau khi thức dậy bé không khóc nhè mà nằm chơi và ê a nói chuyện với bạn khỉ bông.

9h15 sáng: Mẹ thay tã cho bé và đưa bé ra phòng khách chơi.

9h30 sáng: Bé ăn bột và uống khoảng 150 ml sữa.

11h: Bé ngủ khoảng 1 tiếng.

12h trưa: Bé thức dậy và chơi. Bé rất thích mân mê những món đồ chơi lạ hoặc là khám phá những con đường mới.

1h chiều: Ăn trưa. Ngoài khẩu phần là bột với thịt hoặc trứng cùng với rau xay nhuyễn tôi còn chọn các loại trái cây mềm để bổ sung vitamin cho con.

2h chiều: Bé bú khoảng 150 ml sữa.

3h chiều: Bé ngủ ngắn khoảng 1 đến 1,5 giờ.

5h chiều: Ăn tối và uống thêm 150 ml sữa.

7h tối: Bé chơi để tiêu hao hết số năng lượng còn lại.

8h tối: Tôi tắm cho bé.

8h30 tối: Bé ăn khoảng 150 – 180 ml sữa.

9h tối: Sau khi bú xong bình sữa, nếu bé chưa ngủ, tôi sẽ hát để ru con ngủ.

Mẫu 3: Bé 10 tháng tuổi bú bình, mẹ làm ngày, bố làm đêm

Vì ông xã tôi thường xuyên làm ca đêm nên nhịp sinh hoạt của gia đình tôi luôn muộn hơn mọi người.

11h30 sáng: Bé thức dậy và ăn bữa sáng với khoảng 270ml sữa đậu nành, 1 bát nhỏ bột ngũ cốc dinh dưỡng và một ít trái cây tươi.

Buổi trưa: Bé chơi với bố ở trong nhà. Bé rất thích các đồ chơi phát ra âm thanh như đàn, búp bê biết khóc hay là các đồ vật nhiều màu sắc như truyện tranh, bóng bay,…

1h – 2h chiều: Bé ngủ khoảng 2 tiếng.

3h – 4h chiều: Bé thức dậy và ăn bữa trưa.

4h chiều: Chơi cùng bố.

5h30 chiều: Mẹ đi làm về. Khi tôi và chồng ăn tối thì bé cũng sẽ tự mình thưởng thức một chút đồ ăn nhẹ. Bố sẽ đi làm vào lúc 6h30 tối.

6h45 tối: Bé ngủ một giấc khoảng 45 phút.

7h30 tối: Ăn bữa tối.

8h tối: Đi tắm.

9h – 11h tối: Chơi cùng mẹ cho đến khi buồn ngủ. Sau khi ti sữa và làm vệ sinh răng miệng xong tôi sẽ cho bé đi ngủ.

Mẫu 4: Bé 10 tháng tuổi bú mẹ, mẹ ở nhà.

7h – 8h sáng: Bé thức dậy, ti mẹ rồi chơi trên sàn nhà hoặc trên giường.

Trước 9h sáng: Bé ăn sáng, thường là bột hoặc váng sữa. Sau đó, mẹ đưa bé đi dạo hoặc cùng mẹ làm việc nhà.

10h sáng: Bé ngủ khoảng 30 đến 60 phút.

11h: Bú mẹ.

12h – 1h trưa: Ăn trưa. Tôi thường xuyên đổi bữa cho bé với đa dạng các loại bột thịt, bột rau, trứng và sữa.

1h – 2h chiều: Giờ chơi trong nhà (nghe nhạc, chơi bóng hoặc tập đi)

2h chiều: Ngủ 2 đến 3 tiếng trong nôi.

4h – 5h chiều: Sau khi bú mẹ, bé sẽ tự chơi với các món đồ chơi hoặc chơi cùng anh trai.

Trước 7h tối: Tôi tắm cho bé rồi để bé chơi cùng bố.

8h tối: Mẹ đọc truyện và nói chuyện cùng bé. Bé bú mẹ và đi ngủ. Bé sẽ nằm ngủ ngoan ngoãn trong nôi qua đêm.
Nguồn: eva

Thực đơn cho bé 10 tháng tuổi lười ăn

Hỏi: Con trai em hiện đã được 10 tháng. Lúc mới sinh bé nặng 2.6kg, hiện được 8.2kg. Bé rất lười ăn, mỗi lần ăn bột thường mất tới 30 phút và bé chỉ ăn được khoảng 20g mỗi bữa. Thực đơn của bé như sau ạ:

7h: Ăn bột
9h30’: 120ml sữa công thức
10h30’: Sữa chua
11h30’: Ăn bột
15h: 120ml sữa công thức
17h30’: Ăn bột
19h: 90ml sữa công thức
Từ 21h đến sáng hôm sau bé bú mẹ theo nhu cầu.
Xin bác sĩ cho em hỏi thực đơn của bé nhà em như vậy đã hợp lý chưa ạ? Em phải làm sao để bé không biếng ăn nữa ạ. Em cảm ơn! (Thu Huyền)

Trả lời: 

Chào bạn, Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi.
Theo thông tin của bạn cung cấp, sự phát triển của bé hiện tại hoàn toàn bình thường, phù hợp với cân nặng lúc sinh. Tuy nhiên, cân nặng lúc bé sinh hơi nhẹ hơn so với trẻ bình thường nên hiện tại, bé cũng đang nhẹ cân hơn so với các bé khác. Do đó, bạn cần chú ý bổ sung thêm các thức ăn giàu năng lượng cho bé để bé tăng cân và phát triển chiều cao tốt hơn. Các thức ăn năng lượng cao bạn nên cho bé sử dụng là váng sữa, phô mai; đồng thời tăng cường bột ăn dặm, cháo… cho bé. 

Thực đơn cho bé 10 tháng tuổi lười ăn

Bé 10 tháng tuổi cần phải được cung cấp 600-950ml sữa/ngày

Ở tuổi này, bạn nên cung cấp cho bé từ 600-950ml sữa/ngày (3-4 bữa/ngày, mỗi bữa 150-240 ml). Nếu mỗi lần uống bé chỉ uống được ít sữa, bạn có thể chia nhỏ và tăng số bữa lên cho bé.

Về chế độ ăn dặm, bé ăn được 20g bột/bữa, như vậy không phải là quá ít. Tuy nhiên, bạn nên tìm hiểu xem con thích ăn ngũ cốc gì (nếu bé thích ăn súp ngô, súp khoai… bạn có thể tăng cường các món này vào bữa ăn phụ cho bé), thích ăn bột nấu với gì, thích ăn cháo/bột nấu theo cách nào… Nhiều bé không thích ăn bột mà thích ăn cháo nát, hoặc cháo nấu ra rồi mới xay chứ không thích bột xay rồi đem nấu… Việc biết được sở thích của con sẽ giúp mẹ cho bé ăn đỡ vất vả hơn. Ngoài ra, Methongthai.vn khuyên mẹ bé không nên cho bé ăn một bữa quá 30 phút. Việc bữa ăn kéo dài quá 30 phút sẽ dễ dẫn đến tình trạng bé bị chán ăn. Khi bé ăn lâu quá 30 phút mà vẫn chưa xong, bạn vẫn nên dừng lại, không cho bé ăn cố.
Chúc bé nhà bạn hay ăn chóng lớn! 
Bác sĩ Uông Thành

Thực đơn cho trẻ từ 10 đến 12 tháng tuổi

Thực đơn cho trẻ từ 10 đến 12 tháng tuổi
Trải qua giai đoạn ăn dặm từ lúc 7 đến 9 tháng tuổi, bé đã trở nên quen dần hơn với những món ăn dặm. Chính vì thế các bà mẹ thường lo lắng về việc thay đổi khẩu phần ăn, đa dạng thực đơn cho bé từ 10 đến 12 tháng tuổi.

Để cung cấp đủ dưỡng chất cần thiết ở lứa tuổi này, một ngày các bạn có thể cho bé ăn như sau:

1. BỮA CHÍNH

Có thể cho bé ăn bột hoặc cháo nhưng phải đủ 4 nhóm chất bao gồm: chất bột (gạo, đỗ...), chất đạm ăn cả cái (thịt, cá, trứng, tôm, cua...), chất béo (dầu ăn, mỡ động vật), vitamin và chất khoáng (các loại rau xanh, hoa quả).

Lưu ý:

- Chất béo là nhóm quan trọng, việc thiếu chất béo cũng dẫn tới việc hấp thu một số các vitamin (A, D, E, K) bị hạn chế, đó là các vitamin tan trong dầu.
- Một ngày nên cho bé ăn 3-4 bữa chính

2. BỮA PHỤ

- Bữa phụ bao gồm: sữa chua, sữa, súp, bún, phở, bánh ngọt... thay đổi. Ở lứa tuổi này, nguồn cung cấp năng lượng từ sữa rất quan trọng, mỗi ngày bạn nên cho bé bú khoảng 600-800ml sữa (có thể gồm sữa ngoài, sữa mẹ hoặc sữa chua). 

Lưu ý: Khi cho bé bú sữa, tránh để bé bị sặc và phải biết cách chữa sặc sữa cho bé.

- Mỗi ngày bạn nên cho bé ăn 2-3 bữa phụ.
- Từ 1 đến 2 bữa hoa quả chín hoặc nước hoa quả
Đối với các bé từ 10 đến 12 tháng tuổi, lượng thực phẩm trong một bữa bột cho bé là: 20-25g bột, 30-40g chất đạm (thịt, tôm, cá, cua...), 10-15g rau xanh, 10g dầu ăn.
Thực đơn cho trẻ từ 10 đến 12 tháng tuổi

Hướng dẫn chăm sóc bé sáu tháng tuổi

Khi con bạn đến tuổi ăn dặm

LÚC BÉ “ĐÒI ĂN!”

Cho đến 6 tháng tuổi, sữa mẹ luôn là nguồn dinh dưỡng chính cho bé. Tuy nhiên, khi đạt mốc 6 tháng tuổi, bé sẽ có dấu hiệu đói nhiều hơn và ngừng tăng cân. Đó là lúc bé cần chế độ ăn dặm. Mặc dù vậy, hãy nhớ rằng vào giai đoạn này, con bạn vẫn còn rất nhỏ nên phần lớn nhu cầu dinh dưỡng của bé vẫn phải là sữa. Bất kể loại thức ăn đặc nào cũng chỉ là “phụ thêm”, với mục đích giúp bé làm quen nhiều mùi vị khác nhau.
chăm sóc bé sáu tháng tuổi


DẤU HIỆU CHO BIẾT BÉ ĐÃ SẴN SÀNG

Viện Hàn lâm Nhi khoa Hoa kỳ (AAP) và Tổ chức Y tế thế giới (WHO) khuyến nghị nên cho con bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Điều này sẽ giúp giảm thiểu nguy cơ mẫn cảm hóa dị ứng cho bé. Đợi đến khi bé tròn 6 tháng, bé sẽ có hệ tiêu hóa trưởng thành hơn, có khả năng tăng sản xuất các men tiêu hóa để phân giải protein. Lúc này, những cái răng đầu tiên sẽ bắt đầu nhú và bé có sự phối hợp cơ miệng tốt hơn.

Khi đó, bạn hãy để ý xem bé có các dấu hiệu nào sau đây để biết con bạn đã sẵn sàng cho việc ăn dặm:
  • Bé có các cử động nhai không?
  • Bé có thể ngồi vững khi được mẹ đỡ không?
  • Có phải bé vẫn đói sau khi bú mẹ 8 – 10 cữ hoặc 900ml sữa / ngày?
  • Bé có tăng gấp đôi cân nặng so với lúc mới sinh và nặng ít nhất 5,9kg không?
  • Bé có tỏ ra tò mò những gì bạn ăn không? 
Nếu bé có từ 2 dấu hiệu trở lên, thì đã đến lúc cho bé thử thức ăn đặc đầu tiên

HÃY TUÂN THEO THỨ TỰ ƯU TIÊN!

1. Trước tiên, chỉ nên cho bé ăn thức ăn đơn giản, phổ biến nhất là ngũ cốc. Chúng không có chứa gluten (nhờ đó giúp giảm nguy cơ dị ứng), chỉ cần trộn với nước hoặc sữa.
2. Cho bé ăn từng phần nhỏ: 1 – 2 muỗng cà phê là được, dần dần tăng lượng khi thấy bé không đủ no nếu chỉ bú sữa.
3. Mỗi lần chỉ nên cho bé thử một món mới, và các món mới nên cách nhau 2 – 3 ngày. Bằng cách này, bạn tránh làm bé ngán và cũng giúp bạn dễ nhận biết phản ứng của bé với từng loại thức ăn.
Hướng dẫn chăm sóc bé sáu tháng tuổi

THÁP THỰC PHẨM

Bữa ăn dặm tốt nhất phải đảm bảo cung cấp cho bé đầy đủ dưỡng chất thiết yếu. Cách tốt nhất là phối hợp nhiều loại nguyên liệu từ các nhóm thực phẩm khác nhau được trình bày theo dạng tháp dưới đây. Không chỉ là công cụ hữu ích giúp chuẩn bị những bữa ăn dặm bổ dưỡng, việc phối trộn sáng tạo các nhóm trong tháp thực phẩm còn giúp mang đến cho bé sự ngon miệng với nhiều hương vị khác nhau, khiến bé thích thú với việc ăn dặm.
Có thể cân nhắc 3 loại phối hợp. Những kiểu kết hợp này gọi là Phối Gấp Đôi, Phối Gấp Ba và Phối Gấp Bốn.

Nhóm A: Món Chính
Nhóm B: Nguồn đạm
Nhóm C: Bổ sung Vitamin & Khoáng chất
Nhóm D: Bổ sung năng lượng
Tháp thực phẩm

ĐIỀU BẠN CẦN BIẾT

Không nên dùng sữa bò gầy hoặc ít béo vì sữa bò chứa khoảng gấp 3 lần lượng protein và khoáng chất so với sữa mẹ, có thể gây áp lực lên thận của bé.

Ở độ tuổi này, uống nước quá độ có thể gây hại cho não của bé. Mỗi bé trung bình cần 1,5ml nước trên mỗi kilocalo (kcal) thức ăn. Việc bú mẹ hoặc uống sản phẩm dinh dưỡngđã đủ cung cấp lượng nước này. Bạn có thể bổ sung thêm nước cho bé khi trời nóng hoặc khi bé bị tiêu chảy, ói và sốt. Mỗi lần chỉ cho bé uống một ít, tổng cộng khoảng 113 ml/ngày, trừ phi được bác sĩ nhi khoa hướng dẫn cho thêm.

Tránh những thức ăn gây sặc, nghẹt thở như các loại hạt, quả nho, thịt cắt miếng lớn, rau sống, táo và bắp rang.

Sự thay đổi màu và mùi của phân là điều bình thường khi bé dùng thức ăn đặc. Rau quả có màu như càrốt, rau bó xôi và đậu có thể thay đổi màu sắc phân. Tính chất phân cũng có thể bị ảnh hưởng bởi chế độ ăn. Tuy nhiên, nếu bé bị đau bụng, đau quặn hoặc tiêu chảy sau khi dùng một loại thực phẩm, hãy ngưng cho ăn loại đó trong vài tuần, rồi thử lại.

BỔ SUNG HÀM LƯỢNG DHA, ARA CÀNG CAO, TRÍ NÃO BÉ CÀNG PHÁT TRIỂN.

Bạn có biết não bé phát triển không ngừng từ sau khi được sinh ra, đặc biệt là trong hai năm đầu đời. Do đó, việc cung cấp đầy đủ dưỡng chất cho sự phát triển trí não vượt trội thời kỳ đầu rất quan trọng. Trong số các dưỡng chất có lợi cho não, DHA và ARA đóng vai trò cực kỳ quan trọng vì chúng giúp kiến tạo 25% trọng lượng não. Ngoài sữa mẹ, cá và rau là những thực phẩm có nhiều DHA và ARA
Tuy nhiên, các bé từ 6 đến 12 tháng tuổi chưa ăn được nhiều, vì thế không thể hấp thu đầy đủ lượng DHA và ARA cần thiết. Sữa có chứa hàm lượng DHA và ARA cao là một lựa chọn tốt cho bé giai đoạn này.

Nếu bé có tiền sử dị ứng, tránh cho bé ăn trứng, thịt gà gà, bắp (ngô), cá, các trái họ chanh, và các loại hạt.
Nguồn: giadinhenfa

Dinh dưỡng phát triển trí não trẻ em

Làm cha mẹ ai cũng mong muốn có đứa con thông minh và khỏe mạnh. Vậy trí thông minh do những yếu tố nào quyết định? Thực sự có những loại thực phẩm nào ăn vào để phát triển sự thông minh của trẻ hay không? 

Sự phát triển trí thông minh ở trẻ phụ thuộc vào 3 yếu tố: 

- Do di truyền (do gen) 

- Do chế độ dinh dưỡng 

- Do sự rèn luyện, học tập, môi trường sống Như vậy thực sự không thể có một loại thực phẩm nào có thể làm trẻ thông minh, mà các chất dinh dưỡng chỉ có tác dụng hỗ trợ để phát huy những tiềm năng di truyền về gen thông minh đã sẵn có. Ngoài ra sự giáo dục, rèn luyện học tập cũng có tác dụng hỗ trợ cho trí thông minh phát triển. 

Tuy nhiên nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng một số chất dinh dưỡng nếu bị thiếu hụt cũng ảnh hưởng đến sự phát triển trí não ở trẻ em đó là:

Dinh dưỡng phát triển trí não trẻ em

1. Chất đạm (protein): Protein là vật liệu xây dựng nên các tế bào mô, cơ quan, cung cấp các nguyên liệu cần thiết cho sự hình thành các dịch tiêu hóa, các nội tiết tố, các men và các vitamin. Khi thiếu chất đạm sẽ ảnh hưởng sự phát triển của cơ thể nói chung và não bộ nói riêng.

2. Iốt: Khi trong thực phẩm thiếu iốt thì không những lượng iốt di chuyển qua nhau thai của người mẹ sang bào thai sẽ không đủ để đáp ứng sự phát triển não bộ tối ưu, mà nguy cơ hàm lượng iốt trong sữa mẹ cũng sẽ rất thiếu dẫn đến suy giảm sự phát triển não bộ và dẫn đến bệnh đần độn do thiểu năng tuyến giáp.

3. Sắt: Sắt là thành phần của huyết sắc tố myoglobin, các xitrocrom và nhiều engym khác. Sắt vận chuyển oxy và giữ vai trò quan trọng trong hô hấp tế bào. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh thiếu sắt đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển não bộ trong thời thơ ấu. Trẻ bị thiếu máu thiếu sắt có chỉ số phát triển tâm thần và vận động thấp hơn trẻ cùng trang lứa cùng môi trường sống. Khi trẻ đã lớn thiếu máu thiếu sắt cũng ảnh hưởng đến sự phát triển trí nhớ và ảnh hưởng đến kết quả học tập do ngủ gật trong giờ học và thiếu oxy não.

4. Các axit béo không no chuỗi dài: Thành phần của não bộ có đến 60% là chất béo. Trong đó DHA (Docosahexaenoic Acid) và ARA (Arachidonic Acid) là các thành phần lipid chính của não. Trong thời gian có thai người mẹ huy động DHA và ARA để hỗ trợ cho sự phát triển não bộ thai nhi. Người mẹ tiếp tục cung cấp hai dưỡng chất quan trọng này qua nguồn sữa của mình nên nuôi con bằng sữa mẹ làm tăng chỉ số thông minh của trẻ. Trẻ được bú sữa mẹ có chỉ số thông minh (IQ) cao hơn trẻ bú bình từ 3 - 5 điểm. 

Ngoài 4 chất dinh dưỡng kể trên còn nhiều các vi chất dinh dưỡng khác như: kẽm, magiê, đồng, crom, selen…cũng rất quan trọng cho sự phát triển cơ thể của trẻ cũng như não bộ. Vậy muốn con thông minh, các bà mẹ cần phải làm gì? Trước và trong thời kỳ mang thai, thời gian cho con bú người mẹ phải ăn uống đầy đủ các dưỡng chất quan trọng để phát triển tốt não đó là: chất đạm, iốt, sắt, axit folic, các axit béo chưa no (DHA, ARA) có trong các loại thực phẩm như thịt, cá, tôm, cua, trứng, sữa, rau xanh và quả chín. Người mẹ nên ăn nhiều cá nhất là các loại cá biển có chứa nhiều axit béo chưa no (DHA, ARA), uống thêm dầu gan cá, ăn các loại dầu thực vật (dầu đậu nành, dầu oliu…) cũng cung cấp các tiền DHAvà ARA, đó là các anpha linolenic, axit linoleic…khi vào trong cơ thể sẽ được tổng hợp thành DHA và ARA. Nhiều nghiên cứu đã được chứng minh khi có thai bà mẹ ăn cá thường xuyên > 5 lần/tuần sinh ra con có chỉ số IQ cao hơn 8 điểm so với các bà mẹ không ăn cá trong thời kỳ mang thai. Tiếp tục 2 năm cho con bú nếu bà mẹ thường xuyên ăn cá, dầu thực vật thì nguồn DHA và ARA trong sữa cao giúp cho sự phát triển thị lực và trí não của trẻ. 

Trong giai đoạn quan trọng của 2 năm đầu đời, thời kỳ ăn dặm (từ 7 tháng - 3 tuổi): Trẻ cần được ăn đầy đủ các chất dinh dưỡng để cung cấp chất đạm, chất sắt, qua nguồn thức ăn động vật như thịt, cá, trứng, sữa, ăn muối, nước mắm có bổ sung iốt. Các axit béo không no từ dầu ăn, dầu gan cá, cá biển, các loại vitamin và muối khoáng khác từ nguồn rau xanh và quả chín, uống các loại sữa có bổ sung DHA, ARA, Iốt, sắt, taurin và các vi chất dinh dưỡng khác. 

Như vậy muốn có đứa con thông minh, khỏe mạnh các bà mẹ phải chuẩn bị từ trước khi mang thai 1 - 3 tháng. Ăn uống đầy đủ khi mang thai, nuôi con bằng sữa mẹ, cho trẻ ăn bổ sung đầy đủ và hợp lý thì trẻ sẽ phát triển tốt về thể lực và trí não, kết hợp với việc giáo dục và môi trường sống tốt chúng ta sẽ có những trẻ em thông minh và khỏe mạnh, trở thành nguồn nhân tài cho đất nước mai sau.
Nguồn: viendinhduong

Khi nào có thể cho bé ăn hải sản?

Trừ các loại hải sản có vỏ, bạn có thể cho bé ăn cá ở dạng bột sệt hoặc nghiền nhuyễn ngày từ 6 tháng tuổi khi bé bắt đầu ăn dặm. Tuy nhiên do đạm trong hải sản nói chung cũng như cá thường hay gây dị ứng cho trẻ vì vậy nên cho bé ăn từ tháng thứ 7 trở đi là tốt nhất, nhưng điều quan trọng là cho ăn từ từ ít một cho bé thích nghi dần, với những trẻ có cơ địa dị ứmg thì các bà mẹ cần phải thận trọng hơn

Nên cho bé ăn những loại hải sản nào ?

Trong số các loại hải sản, cá biển là thực phẩm tuyệt vời đối với sức khoẻ do chứa đạm có giá trị sinh học cao với tỷ lệ cân đối, phù hợp với cơ thể người. Cá còn rất giàu chất béo không no omega-3 cần để tạo màng tế bào thần kinh và có tác dụng phòng chống bệnh tim mạch. Do đó, ăn cá ít nhất 3 lần/tuần rất có lợi cho sức khoẻ. Gan cá còn rất giàu vitamin A và D. Hàu thì rất giàu kẽm là thành phần của hơn 300 enzyme bên trong cơ thể, là chất cần thiết để trẻ tăng trưởng, và cũng rất cần để phát triển hệ sinh dục. Hầu hết các loại hải sản đều giàu canxi (nhất là các loại cá nhỏ ăn được cả xương) nên rất cần cho xương và răng. Nhưng nếu không biết lựa chọn, bảo quản, chế biến hải sản đúng cách và ăn có mức độ thì có thể “lợi bất cập hại”.
Khi nào có thể cho bé ăn hải sản

Ảnh minh họa 

Cá đồng tuy không chứa nhiều các axit béo chưa no như các biển, nhưng cá đồng cũng chứa nhiều chất đạm quí, dễ hấp thu, lại ít gây dị ứng hơn cá biển, vì vậy khi mới bắt đầu ăn cá các bà mẹ nên cho ăn cá đồng trước, nên chọn cá nạc ít xương như : cá quả, cá trắm, cá trê..

Cá biển nên ăn cá hồi, cá thu, cá ngừ, cá basa các loại cá này chứa nhiều omega 3 ( các axit béo chưa no rất tốt cho sự phát triển thần kinh và thị giác của trẻ, phát triển trí não giúp bé thông minh hơn)

Tôm cũng là thức ăn giàu đạm và canxi, từ tháng thứ 7 trở di các bà mẹ có thể cho con ăn tôm đồn, tôm biển

Cua đồng là thức ăn chứa hàm lượng canxi cao, vì vậy nên cho trẻ ăn thường xuyên để cung cấp canxi cho trẻ.

Các loại hải sản có vỏ như : hàu, ngao, hến, trai … nên cho bé ăn khi đã 1 tuổi, dùng nước nấu cháo, còn thith xay băm nhỏ, các laọi hải sản này chứa nhiều kẽm, một vi chất quan trọng đối với trẻ em.

Hải sản thường giàu đạm và các dưỡng chất cần thiết khác. Hải sản cũng rất ít chất béo no và chứa axit béo không no omega-3, là chất béo thiết yếu cho cơ thể. Hải sản còn giàu vitamin (đặc biệt là vitamin nhóm B) và khoáng chất (canxi, kẽm, sắt, đồng, kali…). Do đó, hải sản sẽ góp phần đa dạng cho chế độ ăn cân đối, khoẻ mạnh và giúp trẻ tăng trưởng. Tuy nhiên, hải sản cũng ẩn chứa một số nguy cơ đối với sức khoẻ.

Những loại hải sản nào không nên cho bé ăn ?

Một số loại cá chứa hàm lượng thủy ngân và các chất ô nhiễm cao. Nên tránh ăn cá mập, cá kình, cá lưỡi kiếm (cá cờ), cá thu lớn, cá ngừ lớn.

Điều quan trọng nhất là khi cho bé ăn hải sản các bà mẹ phải chọn laọi còn tươi, không ăn hải sản đã chết vì dẽ gây ngộ độc thức ăn cho bé.

Cách chế biến hải sản như thế nào ?

Cách chế biến hải sản không đúng cũng có thể gây bất lợi cho cơ thể bé . Hải sản chế biến chưa chín hẳn (gỏi cá sống, hàu sống, sò, mực nướng…) có thể ẩn chứa vi trùng và ký sinh trùng. Đó là nguyên nhân của không ít trường hợp nhiễm trùng đường ruột khi ăn hải sản. Ngày nay, khi môi trường ngày một ô nhiễm thì một nguy cơ nữa phải kể đến khi ăn nhiều hải sản là khả năng nhiễm kim loại nặng như thuỷ ngân.

Khi trẻ còn trong giai đoạn ăn bột và cháo : tốt nhất là xay, nghiền nhỏ cá, tôm để nấu bột hoặc cháo, nếu là cá đồng nhiều xương, bạn nên luộc chín cá rồi gỡ xương, cá biển nạc có thể xay sống như xay thịt rồi cho vào nấu bột, nấu cháo cho bé, với cua đồng thì giã lọc lấy nước để nấu bột, cháo, tôm to thì bóc vỏ sau đó xay hoặc băm nhỏ, với tôm quá nhỏ có thể giã lọc lấy nước như nấu bột cua.

Với các loại hải sản có vỏ thì luộc chín lấy nước nấu cháo, bột , thịt xay băm nhỏ cho vào cháo, bột

Trẻ đã lớn hơn từ 3 tuổi trở lên : ngoài ăn các loại cháo, mỳ, miến… nấu với hải sản có thể cho bé ăn dạng luộc hấp : cua luộc, ghẹ hấp, luộc, ngao hấp…

Điều quan trọng nhất là phải nâú chín kỹ không cho trẻ ăn gỏi cá, hoặc nấu chưa chín kỹ.

Lượng hải sản ăn bao nhiêu là đủ ?

Ngày nào bạn cũng có thể cho bé ăn 1 – 2 bữa từ hải sản, nhưng tuỳ theo tháng tuổi mà lượng ăn mỗi bữa khác nhau :

Trẻ 7 – 12 tháng : mỗi bữa có thể ăn 20 – 30 thịt của cá, tôm ( đã bỏ xương, vỏ ) nấu với bột, cháo, mỗi ngày có thể ăn 1 bữa, tối thiểu ăn 3 – 4 bữa/tuần

Trẻ 1 -3 tuổi : mỗi ngày ăn 1 bữa hải sản nấu với cháo hoặc ăn mỳ, bún , súp…mỗi bữa ăn 30 - 40 g thịt của hải sản

Trẻ từ 4 tuổi trở lên : có thể ăn 1 – 2 bữa hải sản/ngày, mỗi bữa có thể ăn 50 – 60g thịt của hải sản, nếu ăn ghẹ có thể ăn ½ con/bữa, tôm to có thể ăn 1 – 2 con/bữa (100g cả vỏ).

Với những lợi ích về dinh dưỡng không thể chối cãi của các loại hải sản các bà mẹ nên cho bé ăn hàng ngày, nhưng phải tập cho bé ăn ít một, từ ít đến nhiều, chọn loại tươi ngon, chế biến nấu chín kỹ để tránh ngộ độc thức ăn ở trẻ.
Nguồn: viendinhduong

7 điều cần lưu ý khi chế biến rau củ cho con

Khi đến tuổi ăn dặm rau, củ, quả là một trong những thực phẩm không thể thiếu bổ sung chất dinh dưỡng cho trẻ nhỏ. Các loại vitamin và chất xơ giàu năng lượng có trong các loại rau củ giúp đẩy nhanh quá trình trao đổi chất ở bé và cải thiện hệ tiêu hóa cho bé yêu. Tuy nhiên nếu chế biến và cho con ăn rau củ không đúng cách không những không hấp thụ được chất dinh dưỡng từ rau củ mà còn có ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của bé nữa. Xin mách các mẹ 7 điều cần lưu ý khi chế biến rau củ cho con.

Phải rửa rau thật kỹ

Với nỗi lo thực phẩm ngày nay đầy chất hóa học độc hại không ít các bà mẹ lựa chọn mua rau củ trong siêu thị hay các cửa hàng rau siêu sạch trên thị trường. Tuy nhiên mặc dù được gán mác rau siêu sạch thì ở đó vẫn có rất nhiều chất bẩn và vi khuẩn hơn mẹ nghĩ và có thể nhìn thấy. Vì thế khi mua rau về mẹ vẫn nên lưu ý khâu rửa rau thật sạch. Tốt nhất mẹ nên ngâm rau trong nước 20-30 phút cho hết hoàn toàn thuốc trừ sâu, rồi rửa lại bằng nước sạch 2-3 lần, kết thúc ngâm trong hỗn hợp nước muối nhạt từ 10-15 phút để rau được khử trùng hoàn toàn.

Nên cho con ăn nhiều loại rau có lá

Trẻ con có xu hướng thích ăn các loại củ quả hơn là các loại rau có lá xanh. Tuy nhiên mẹ cần nhớ trong các loại rau lá xanh có chứa nhiều loại vitamin hơn trong củ quả. Vì thế mẹ hãy chế biến các món từ rau lá xanh thật phong phú, hấp dẫn, kết hợp màu sắc ngon mắt thì chắc chắn bé sẽ ăn thun thút ngay.
7 điều cần lưu ý khi chế biến rau củ cho con

Để con tự chủ động chọn loại rau mình thích sẽ tốt hơn là ép uổng

Bố mẹ cũng cần ăn rau xanh

Trẻ con sẽ không chịu ăn rau nếu nhìn thấy bố mẹ cũng không ăn. Rất nhiều người lớn có thói quen chỉ ăn cơm, thịt và rau ăn rất ít nhưng lại ép trẻ ăn thật nhiều chất xơ. Điều này là không công bằng và bé sẽ không có được chút hứng thú nào với các loại rau củ khi chứng kiến bố mẹ mình cũng không thích ăn loại thực phẩm này.

Tuyệt đối đừng ép bé ăn quá mức

Nếu bé không thích ăn rau xanh hay bất cứ một loại thực phẩm nào khác, mẹ cũng đừng vì thế mà ép con ăn quá mức. Ăn uống do ép buộc sẽ khiến trẻ hấp thụ được ít chất dinh dưỡng hơn và càng tăng cảm giác biếng ăn ở trẻ. Thay vào chiêu áp bức, ép buộc mẹ hãy tìm cách ngon ngọt dỗ dành và dụ dỗ cho bé ăn rau thì tốt hơn.

Trái cây không thay thế được rau củ

Nhiều mẹ có quan điểm sai lầm khi nghĩ con không thích ăn rau cũng không sao, có thể cho bé ăn bù bằng nhiều loại trái cây khác. Nhưng điều này là hoàn toàn không đúng. Ở rau xanh có chất xơ và các loại vitamin mà ở hoa quả không đủ để thay thế. Hãy lựa chọn hoa quả như một thực phẩm bổ sung chất dinh dưỡng bên cạnh rau xanh bổ dưỡng các mẹ nhé.

Sử dụng nồi nhôm hoặc inox để chế biến rau

Các mẹ hãy sử dụng nồi nhôm hoặc inox để chế biến rau cho bé, nhất là để luộc rau, tránh không sử dụng các loại nồi đồng. Chúng ta biết rằng, trong các món ăn cũng như rau đều có chứa một lượng axit nhất định. Lượng axit này sau khi ngâm trong nồi sẽ làm thôi ra một lượng kim loại hoặc làm oxy hóa lớp bề mặt vật đựng bằng kim loại. Mặc dù nồng độ cũng như hàm lượng kim loại bị thôi nhiễm không nhiều, tuy nhiên điều này cũng hoàn toàn không có lợi cho sức khỏe của bé.

Một thói quen khác rất không tốt của các mẹ khi chế biến các món rau là cứ để rau trong nồi và đậy vung một lúc cho rau mềm. Làm thế không những mất chất dinh dưỡng của rau mà những chất không tốt từ nồi có thể ngấm vào nước và rau đấy mẹ nhé.

Không lưu trữ các loại rau đã chế biến quá lâu

Các mẹ tuyệt đối không nên tái chế các món rau lưu trữ nhé. Nếu thức ăn thừa, đặc biệt là các loại rau xanh được lưu trữ quá lâu, sẽ sản xuất một lượng lớn nitrit có khả năng gây ra ngộ độc thực phẩm đặc biệt đối với những bé có cơ thể yếu và nhạy cảm.

Rau xanh và các loại củ quả là một trong những thực phẩm quan trọng hàng đầu đối với sức khỏe của mỗi người. Vì thế các mẹ hãy chú ý để con yêu được hấp thụ chất dinh dưỡng từ rau xanh một cách tối đa và lớn khỏe mỗi ngày nhé.
Nguồn: meyeucon

Trẻ chỉ ăn nước hầm xương có đảm bảo dinh dưỡng?

Nhiều bà mẹ có thói quen ninh xương để lấy nước nấu bột cho con và tin rằng nước xương hầm rất giàu canxi, chứa tất cả những chất bổ tinh túy nhất của thực phẩm. Vị ngọt của nước hầm xương giúp bé cảm thấy ngon miệng, dễ tiêu hóa và giúp xương chắc khỏe. Nhưng các chuyên gia dinh dưỡng thì không nghĩ như thế.

Đối với trẻ, việc sử dụng chất béo hợp lý là cực kỳ cần thiết cho sự phát triển. Trọng lượng của trẻ tăng gấp đôi so với lúc sinh khi được năm tháng, gấp ba lúc một tuổi, gấp bốn lúc hai tuổi. Não của trẻ cũng tăng gấp ba so với lúc sinh khi trẻ một tuổi, đạt 80% não người lớn lúc hai tuổi, bằng não người trưởng thành khi trẻ sáu tuổi. Trong khi đó, chất béo lại chiếm đến 70 - 85% cấu tạo của não và dây thần kinh. Vì vậy, thời gian này trẻ cần năng lượng và chất béo rất nhiều.

Mặc dù trong tủy xương có nhiều chất béo, nhưng đây là chất béo động vật, khó tiêu hóa. Nếu trẻ ăn nhiều, sẽ gây tiêu chảy hoặc phân sống. Quan niệm cho rằng chỉ cần cho trẻ ăn bột, cháo với nước hầm xương là đầy đủ chất dinh dưỡng, hoàn toàn sai. Bởi nước hầm thịt, xương không chứa nhiều chất dinh dưỡng, mà chỉ chứa rất ít vitamin, đạm, canxi...
Trẻ chỉ ăn nước hầm xương có đảm bảo dinh dưỡng

Nước hầm xương, thịt không chứa nhiều chất dinh dưỡng.Ảnh: H. Thu

Canxi là thành phần quan trọng trong cấu trúc xương và răng, giúp xương phát triển vững chắc và giúp trẻ phát triển chiều cao. Trong xương có nhiều canxi nhưng đó là canxi vô cơ, cơ thể trẻ không thể hấp thụ được. Đây chính là nguyên nhân khiến trẻ còi xương, chậm mọc răng do thường xuyên chỉ ăn bột, cháo với nước hầm xương.

Chất đạm có trong thịt, cá, tôm… dù có nấu bao lâu vẫn tồn ở bã thịt. Nếu trẻ chỉ ăn nước mà không ăn cái sẽ bị thiếu chất đạm dẫn đến suy dinh dưỡng và thiếu máu. Còn các loại vitamin C, E, A, sắt, kẽm… có trong rau củ chỉ hòa tan vào nước một lượng ít, trẻ sẽ bị táo bón nếu chỉ cho ăn nước do thiếu chất xơ. Vì vậy, nên cho trẻ ăn cả phần cái bằng cách nghiền, xay hoặc băm nhỏ để đảm bảo đầy đủ chất.

Cháo, bột hoặc cơm nếu trộn với nước hầm xương mà không có rau, thịt, sẽ tạo cho trẻ cảm giác dễ nuốt. Lâu dần, trẻ sẽ hình thành thói quen lười nhai, hay ngậm thức ăn và dẫn đến chán ăn. Nhai đóng vai trò rất quan trọng đối với sự tiêu hóa thức ăn. Nhai không chỉ làm nhỏ thức ăn, trộn lẫn chúng với nước bọt chứa men tiêu hóa mà còn tác động đến hệ xương hàm của trẻ. 

Để đảm bảo đủ dinh dưỡng, thức ăn cho trẻ cần phải chứa bốn nhóm dinh dưỡng sau:
  • Tinh bột (gạo, mì, ngô, khoai…): Cung cấp phần lớn năng lượng, hơn 1/2 nhu cầu về đạm và vitamin mà cơ thể bé cần.
  • Đạm (thịt, cá, tôm, cua…): Rất cần cho sự tăng trưởng, phát triển của trẻ.
  • Chất béo (dầu ăn): Rất cần cho sự phát triển của bộ não, cung cấp nhiều năng lượng, giúp hấp thu các vitamin tan trong chất béo, đồng thời làm bột mềm, dễ nuốt. 
  • Các loại rau không chỉ cung cấp vitamin, sắt, các chất khoáng khác cần thiết cho cơ thể, mà còn cung cấp chất xơ giúp bé tránh được táo bón.
    Nguồn: viendinhduong

Thuốc nào có thể qua sữa mẹ?

Bà mẹ đang trong thời kỳ cho con bú phải dùng thuốc chữa bệnh đều rất phân vân, lo lắng về ảnh hưởng của thuốc thông qua sữa mẹ đối với sức khỏe của con. Đã có nhiều bà mẹ lựa chọn giải pháp tạm thời ngừng cho con bú trong giai đoạn dùng thuốc. Tuy nhiên, có rất nhiều nguy cơ nếu không thể cho con bú, vì thế cần xem xét một số điều sau. 

Một ít thuốc tiết qua sữa có làm cho việc bú mẹ nguy hiểm hơn so với dùng sữa bình không? Hầu như không đáng lo ngại. Nói cách khác, thái độ thận trọng nghĩa là tiếp tục cho con bú chứ không phải là chuyển sang bú bình. Cần lưu ý rằng, ngừng cho bú 1 tuần có thể làm cho trẻ thôi bú vĩnh viễn vì trẻ không chịu bú mẹ nữa. 

Cho con bú khi người mẹ dùng thuốc, nhìn nhận thế nào? Hầu hết thuốc mà người mẹ dùng đều có trong sữa nhưng thường chỉ ở mức rất nhỏ. Mặc dù một số rất ít thuốc vẫn có thể gây ra vấn đề cho trẻ dù với lượng rất nhỏ nhưng đa số không như vậy. Khi mẹ cho bú mà phải dùng thuốc chữa bệnh cần tham khảo ý kiến thầy thuốc để được thay thế bằng loại thuốc an toàn chứ không cần ngừng cho bú. 

Tại sao phần lớn thuốc mà người mẹ dùng chỉ có trong sữa với lượng rất nhỏ? Vì nồng độ thuốc trong máu mẹ thường chỉ tính bằng microgram, thậm chí nanogram (một phần triệu hay một phần tỷ của gram) trong khi người mẹ dùng thuốc ở liều milligram (một phần nghìn của gram) hoặc gram. Hơn nữa, không phải mọi thứ thuốc có trong máu mẹ đều có thể chuyển qua sữa. Chỉ có loại thuốc không gắn với protein trong máu mẹ mới có thể chuyển qua sữa. Nhiều thuốc hầu như gắn hoàn toàn với protein trong máu mẹ, do đó trẻ không nhận được lượng thuốc tương tự như liều lượng người mẹ dùng mà luôn thấp hơn nhiều.


Các bà mẹ không nên quá lo lắng vì ảnh hưởng của thuốc tới con.

Thuốc như thế nào được coi là an toàn?

Hầu hết, thuốc là an toàn nếu đảm bảo các tiêu chí sau: 
  • Thuốc thường chỉ được dùng cho trẻ em: Lượng thuốc qua sữa ít hơn nhiều so với khi trẻ dùng trực tiếp.
  • Thuốc được coi là an toàn khi mang thai: Điều này không phải bao giờ cũng đúng, vì khi mang thai, cơ thể mẹ lại giúp cho thai không tiếp nhận thuốc. Do đó, về lý thuyết, sự tích tụ chất độc lại có thể xảy ra khi cho con bú chứ không xảy ra khi mang thai (mặc dù điều này hiếm khi diễn ra). 
  • Thuốc không được hấp thụ ở dạ dày hay ruột: Những thuốc này bao gồm nhiều loại thuốc tiêm, tuy không phải tất cả. Ví dụ, thuốc gentamycin (và nhiều thuốc khác thuộc dòng kháng sinh), heparin, interferon, thuốc gây tê tại chỗ, omperazole... 
  • Thuốc không thải trừ qua sữa mẹ: Một số thuốc chỉ vì quá to nên không thể chuyển qua sữa mẹ, ví dụ heparin, interferon, insulin.
Những thuốc nào được coi là an toàn khi cho con bú? Một số thuốc thường dùng được xem là an toàn khi cho con bú, bao gồm: 
  • Acetaminophen (tylenol, tempra), rượu (với lượng hợp lý), aspirin (liều thông thường, trong thời gian ngắn). Hầu hết, thuốc chống động kinh, thuốc hạ huyết áp, tetracyclin, codein, thuốc chống viêm không steroid (như ibuprofen), prednisone, thyroxin, warfarin, các thuốc chống trầm cảm, metronidazole (flagyl)...
  • Thuốc bôi ngoài da, thuốc hít (như thuốc chữa hen) hay thuốc nhỏ mắt, nhỏ mũi đều gần như an toàn khi cho con bú.
  • Thuốc gây tê tại chỗ hay khu vực dùng cho người mẹ không được hấp thụ vào dạ dày trẻ và an toàn. Những thuốc dùng trong gây mê toàn thân cho mẹ chỉ đi vào sữa mẹ với lượng rất nhỏ (giống như các thuốc khác) và rất khó có thể tác động đến trẻ. Những thuốc này có thời gian bán thải rất ngắn và bị thải trừ rất nhanh khỏi cơ thể mẹ. Người mẹ có thể cho con bú ngay sau khi tỉnh. 
  • Gây miễn dịch (tiêm hay uống vaccin) cho mẹ không đòi hỏi phải ngừng cho bú. Trái lại, việc gây miễn dịch cho mẹ còn giúp trẻ phát triển sự miễn dịch nếu như chất có trong vaccin vào sữa. Trong thực tế, hầu hết các vaccin đều không đi vào sữa.
  • Chụp Xquang hay scan (phương pháp chẩn đoán hiện đại dựa trên hình ảnh): Xquang thông thường không đòi hỏi bà mẹ ngừng cho con bú ngay cả khi có dùng chất cản quang (ví dụ chụp bể thận với thuốc tiêm tĩnh mạch). Lý do là thuốc không đi vào sữa và dù có thì trẻ cũng không hấp thụ. Cũng như vậy với CT scan (chụp cắt lớp vi tính) và MRI scan (cộng hưởng từ) không cần ngừng cho bú dù có làm lần thứ hai. 
  • Còn phương pháp chẩn đoán bằng chất phóng xạ? Khi mẹ cần đến phương pháp chẩn đoán có dùng chất đồng vị phóng xạ (để có hình ảnh tổn thương ở phổi, hệ bạch mạch, xương) thì nên dùng chất technetium vì chất phóng xạ này có thời gian bán thải là 6 giờ, có nghĩa là sau 12 giờ, 75% chất technetium đã được thải trừ và nồng độ trong sữa đã rất thấp.
  • Sau khi thăm dò bằng chất phóng xạ, bà mẹ đều có thể cho con bú, chỉ nên chờ qua 12 giờ (với technetium). Thăm dò tuyến giáp trạng với chất phóng xạ lại khác vì chất iodine phóng xạ tập trung nhiều ở sữa, được trẻ hấp thụ và sẽ đi đến tuyến giáp của trẻ rồi tồn tại ở đó lâu dài. Điều này rõ ràng đáng lo ngại nhưng may mắn là loại thăm dò này không mấy khi cần làm cho bà mẹ cho con bú. 
Nguồn: viendinhduong
 

Blogger news

Blogroll

About